TRUYỀN THỐNG BỘ ĐỘI CÔNG BINH: "MỞ ĐƯỜNG THẮNG LỢI"

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10











30 tháng 3, 2012

CHƯƠNG TRÌNH “VỀ CHIẾN TRƯỜNG XƯA, TRI ÂN ĐỒNG ĐỘI

CHƯƠNG TRÌNH
“VỀ CHIẾN TRƯỜNG XƯA, TRI ÂN ĐỒNG ĐỘI”
    


Chương trình đáp ứng nguyện vọng của các cựu chiến binh về thăm chiến trường xưa tìm đồng đội cũ để tri ân các liệt sỹ đã anh dũng hi sinh trong các chiến dịch năm 1972; đi tìm hài cốt liệt sỹ chưa được quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ, gặp lại đồng đội để ôn lại kỷ niệm một thời kỳ máu lửa tại mặt trận Quảng Trị; phát hiện những thành tích trong chiến đấu và phát huy trong đời thường đề nghị Nhà nước và Quân đội khen thưởng xứng đáng; đề nghị bảo đảm chế độ chính sách cho cựu chiến binh chưa được hưởng chính sách theo chế độ hiện hành; bổ sung những tư liệu còn thiếu, chỉnh sửa những tư liệu còn sai sót, biên tập thành tài liệu lịch sử, văn hóa để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
 CÁC ĐƠN VỊ THAM GIA ĐỒNG TỔ CHỨC
 1. Ban Liên lạc truyền thống các đơn vị tham gia chiến đấu tại Quảng Trị 1972
 2. Đài Truyền hình Việt Nam
 3. Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
 4. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
 5. Báo Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh
 6. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
 7. Trung tâm Hỗ trợ giáo dục thanh thiếu niên Việt Nam
 8. Hội Truyền thống Trường sơn – Đường Hồ Chí Minh
 9. Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ
 10. Trung tâm Giáo dục truyền thống và Lịch sử
 11. Hội “Chiến sĩ thành cổ tỉnh Quảng Trị”

 TRÍCH LƯỢC Ý KIẾN CHỈ ĐẠO
 CỦA NGUYÊN TỔNG BÍ THƯ LÊ KHẢ PHIÊU
(Tại Lễ ra mắt Ban Tổ chức Chương trình “Về chiến trường xưa, tri ân đồng đội” ngày 02/3/2012 ở Bảo tàng Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam)
 “Đây là chương trình rất quan trọng, vừa rồi tôi có gặp Ban Liên lạc B4, B5 các đồng chí cho biết cũng chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm trọng thể và đề ra các mục tiêu như 6 mục tiêu mà Ban Tổ chức Chương trình đã nêu. 6 mục tiêu để chúng ta làm là cần thiết. Việc tri ân và đi tìm mộ liệt sỹ, ngoài việc Nhà nước tổ chức các đoàn đi tìm kiếm chúng ta vẫn đang làm, còn rất nhiều các tổ chức tự giác của anh em bỏ tiền ra đi tìm đồng đội mình tới mấy vạn chứ không phải ít. Lần này, các đồng chí đề ra trong đó có việc đi tìm kiếm liệt sỹ là đúng, phải tiếp tục tìm kiếm.
 Về chính sách cho anh em, vừa rồi họp hội cựu chiến binh, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên có nói vấn đề này. Nếu có đề cập tới chính sách, các đồng chí nên tham khảo ý kiến đồng chí Đồng Sỹ Nguyên. Về chế độ chính sách, các vấn đề cần giải quyết cứ giải quyết, việc các đồng chí nêu tôi đồng ý cả.
 Tôi thấy lần này quy mô đặt tầm cao hơn và có tổ chức chặt chẽ, còn những cái đối với tri ân đồng đội, tri ân gia đình liệt sỹ, tôi nghĩ đó là trách nhiệm của một chiến sỹ quân đội, thế cho nên đối với đồng đội hay các đồng chí tổ chức tôi đều tham gia. Nhưng tôi muốn nói ta khoanh lại địa bàn Quảng Trị, nói Quảng Trị liên quan tới Thừa Thiên nữa, còn tất nhiên trong cả nước hay toàn miền Nam, lúc chiến tranh thì phải chung tay, nhưng ở đây ta lấy cái mốc mà các đồng chí nói 40 năm Chiến dịch xuân hè năm 1972. Lúc này, ta phải hiểu kể cả thắng lợi vĩ đại trận “Điện biên phủ trên không” 18 -28/12/1972 tạo nên cục diện “làm cho Mỹ cút tiến tới đánh cho ngụy nhào” cái quan trọng ở chỗ là đòn tấn công quân sự, tấn công chính trị và cả tấn công ngoại giao…
 Cuộc chiến đấu vĩ đại nhưng mà hy sinh ghê gớm, sự đóng góp toàn dân,sức mạnh của toàn dân cả miềm Bắc, miền Nam mới thắng được chứ không phải dễ dàng gì, nhưng hậu quả của nó vẫn cần phải giải quyết, không được coi là xong rồi. Cho nên các đồng chí mời tôi đến, ý kiến tôi đồng ý, mà nên làm như thế. Tôi ủng hộ, rất khoát phải làm, không làm không được…”.



PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
 I. SỰ CẦN THIẾT
Cách đây 40 năm, Chiến dịch mùa hè và chiến dịch phòng ngự Quảng Trị 1972 là chiến dịch kéo dài, ác liệt nhất, mật độ bom đạn cao nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ mặt trận Quảng Trị đến “Điện Biên Phủ trên không” và Hội nghị Paris là sự kết hợp hài hòa nhất đường lối quân sự, chính trị và ngoại giao của Đảng ta và là bản Anh hùng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Thắng lợi này đã mở toang khu giới tuyến (vĩ tuyến 17) - cánh cửa ngăn cách hai miền Nam – Bắc, tạo ra cục diện mới hết sức thuận lợi cho trận toàn thắng Mùa Xuân 1975.
Thắng lợi thật huy hoàng nhưng cũng nhiều hy sinh mất mát; hàng vạn cán bộ chiến sĩ nằm lại vĩnh viễn trên chiến trường, một sự đau thương vô hạn.
Đã 40 năm mà cảnh tượng bi hùng ấy ngỡ như ngày hôm qua, những cảm xúc làm cho mỗi người luôn đau đáu trong lòng và tình cảm ấy làm cho người sống trở về, càng gần gũi và giúp đỡ lẫn nhau trong công việc đời thường. Một số vấn đề tồn đọng cần được giải quyết vẫn canh cánh bên lòng của các chiến sĩ năm xưa, như việc quy tập hài cốt liệt sỹ, giải quyết chính sách cho thương, bệnh binh…
 Ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết có hiệu lực (tháng 1 năm 1973), Đảng, Nhà nước và Quân đội ta đã có chủ chương quy tập mộ liệt sỹ, tổ chức nhiều đơn vị có quy mô hàng đại đội, trung đội… chuyên trách về các chiến trường xưa, bất kể núi cao, vực sâu, đồng bằng, hải đảo và sang cả nước bạn để tìm kiếm phần mộ liệt sỹ quân tình nguyện. Trong các đoàn đi tìm kiếm mộ liệt sỹ đã có nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ hi sinh hoặc bị thương vì bom mìn địch cài lại, hoặc bị đổ xe…
 Phong trào tìm mộ liệt sỹ đã được phát động trong toàn quân, toàn dân trên cả nước và bằng mọi biện pháp có thể (kể cả biện pháp tâm linh). Nhờ vậy, mà hàng trăm ngàn liệt sỹ nằm phân tán trên khắp các chiến trường đã được quy tập vào hàng nghìn nghĩa trang liệt sỹ.
 Song song với việc quy tập mộ liệt sỹ, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách xã hội đối với các gia đình liệt sỹ, thương, bệnh binh, người có công với nước và đã dành một khoản ngân sách lớn chăm lo cho các đối tượng kể trên. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và đồng bào ta (kể cả đồng bào đang sinh sống ở nước ngoài) đã bỏ ra bao nhiêu công sức, tiền của để cưu mang, giúp đỡ các đối tượng chính sách mọi lúc, mọi nơi. Trên khắp đất nước ta từ đồng bằng, đô thị tới miền rừng núi, hải đảo xa xôi, nơi nào cũng nở rộ tinh thần tương thân tương ái và đã tạo thành phong trào của quần chúng như: “Đền ơn đáp nghĩa”, “Nuôi dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”, “Xây nhà tình nghĩa, tình thương”, “Trợ vốn làm ăn cho thương, bệnh binh”… Đến nay, hầu hết các đối tượng chính sách đã có cuộc sống từ mức trung bình trở lên so với khu dân cư đang sống.
Tuy nhiên, do có khó khăn về nhiều mặt, kể cả bị tác động của mặt trái cơ chế thị trường, nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện các chính sách xã hội. Như nhà thơ thương binh Đỗ Việt Dũng lột tả chân thật người lính già sau chiến tranh bằng thơ:
 “ Nhận giấy báo khám lại thương tật
 Anh không còn tin ở mắt mình
 Cái tuổi bảy hai xa trời gần đất (72 tuổi)
 Hy vọng cuối cùng may ra được thương binh”.
 Hay về ảnh hưởng chất độc da cam/Dioxin
 “ Con bị nhiễm chất độc da cam
 Ăn cũng chẳng xong còn nói chi làm
 Quặt quẹo tay khua vào vô thức
 Vũ điệu buồn cào cấu ruột gan!
 Ở chiến trường bố nào biết “da cam”
 Chỉ thấy đạn bom khốc liệt
 Đến lúc sinh con mới biết
 Cuộc chiến tranh kia man rợ biết chừng nào”.
Đó là những người có con, cháu dị tật, dị dạng, còn những người thương binh, bệnh binh và cựu chiến binh hoạt động trong vùng nhiễm độc bị ảnh hưởng sức khỏe gây biến chứng mắc các bệnh hiểm nghèo, nhiều đồng chí đã chết chưa được hưởng chính sách xã hội… Quan trọng nhất là dư lượng chất độc trong người, làm ảnh hưởng sức khỏe phải được bồi dưỡng, tẩy độc và rèn luyện sức khỏe, tăng sức đề kháng chống chọi với bệnh tật do chất độc gây nên. Vì vậy, cần có chế độ nhất định đối với những người đã từng hoạt động trong vùng địch có sử dụng chất độc màu da cam, để bớt đi nỗi đau dai dẳng tới đời sau.
Đặc biệt là tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sỹ đưa về nghĩa trang liệt sỹ. Sau chiến tranh, từ cảnh bố mẹ đi tìm con, vợ tìm chồng, em tìm anh, con tìm cha, rồi đến nay là cảnh cháu đi tìm ông. Vì “các ông lính binh nhì” còn sống đến nay đã ngoài sáu chục, nếu nhân dịp 40 năm không tổ chức xem lại để chỉnh sửa những sai sót, bổ sung những chi tiết còn thiếu sẽ mất đi những tài sản vô giá mà cha anh chúng ta đã đổ bao nhiêu xương máu mới có được.
 Ban Tổ chức Chương trình nhận định rằng: Trong chiến tranh chỉ có các cán bộ, chiến sĩ trực tiếp chôn đồng đội thì mới nhớ rõ vị trí chôn cất. Đến nay hầu hết những cán bộ chiến sĩ này đã ở độ tuổi trên dưới 60, đã phục viên, nghỉ hưu ở khắp các địa phương. Phần lớn trong số họ kinh tế gia đình còn gặp khó khăn, nếu được Nhà nước hỗ trợ và tổ chức cho họ về tận nơi chôn cất đồng đội năm xưa thì nhất định họ sẽ chỉ đúng vị trí chôn cất”.
 Vừa qua, Ban Tổ chức Chương trình “Về chiến trường xưa, tri ân đồng đội” đã làm thí điểm, đưa đồng chí Phạm Xuân Chung ở Hưng Hà, Thái Bình (trực tiếp chôn đồng đội ở động Ông Do) kết hợp với các O du kích còn sống, về lại nơi chiến đấu tại động Ông Do năm 1972. Kết quả đã tìm thấy 4 ngôi mộ đồng đội.
 Nhân kỷ niệm 40 năm Chiến dịch Xuân hè và Chiến dịch Phòng ngự Quảng Trị (1972 – 2012), Ban Tổ chức kính mời các cựu chiến binh tham gia chôn cất đồng đội trong Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 về thăm lại chiến trường xưa, gặp gỡ giao lưu với đồng đội cũ và cố gắng cao nhất tìm kiếm phần mộ các đồng chí hi sinh hiện vẫn chưa được quy tập về nghĩa trang…
 Đây là chương trình gặp gỡ hiếm có của tất cả các đơn vị, các cựu chiến binh tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị năm 1972, gồm các Sư đoàn: 304, 308, 312, 320B (390), 324, 325; Tổng cục II, An ninh Miền, Binh đoàn Trường Sơn (559), Quân khu 4, Mặt trận B5, bộ đội địa phương, dân quân du kích tỉnh Quảng Trị; các quân, binh chủng: Phòng không - Không quân, Hải quân, Pháo binh, Tăng – Thiết giáp, Công binh, Thông tin, Đặc công, Hóa học…; các đơn vị trực tiếp phối hợp cho chiến dịch như Tổng công trình 1-Bộ Giao thông vận tải… để tri ân những con người, ghi công những đơn vị đã phát huy bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, bản chất anh hùng cách mạng không ngại hy sinh gian khổ, xương máu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

II. TÊN GỌI, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN
 1. Tên gọi:  “VỀ CHIẾN TRƯỜNG XƯA, TRI ÂN ĐỒNG ĐỘI”
 2. Địa điểm:
 - Tỉnh Quảng Trị
 - Thành phố Hà Nội
 3. Thời gian: Trong năm 2012.
 Sau khi chương trình thực hiện xong, Ban Chỉ đạo và Ban Tổ chức sẽ ra quyết nghị giải thể, chấm dứt nhiệm vụ.
 Tuy nhiên, những công việc chưa thể giải quyết được trong năm, Ban Tổ chức sẽ thành lập một bộ phận chuyên trách để giải quyết tồn đọng cho đến khi hoàn thành các mục tiêu.
III. CĂN CỨ PHÁP LÝ
 - Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
 - Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25 tháng 11 năm 2004 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005; Pháp lệnh này quy định về Cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh Việt Nam;
 - Chương trình giao lưu “VỀ CHIẾN TRƯỜNG XƯA, TRI ÂN ĐỒNG ĐỘI”, do Ban Liên lạc truyền thống Cựu chiến binh Sư đoàm 312 khởi xướng.
 - Công văn chỉ đạo Số 1843/ CV – TH, ngày 23 tháng 11 năm 2011 về việc thực hiện chương trình của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam;
 - Công văn số 226/VP –TH ngày 17/02/2012 của văn phòng Tổng cục Chính trị về thực hiện Chương trình.
 - Công văn Số 47/ TƯĐTN, ngày 11 tháng 01 năm 2012 V/v Tham gia Ban Tổ chức chương trình của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
 - Công văn Số 16/THVN, ngày 05 tháng 01 năm 2012 V/v Tham gia Ban Tổ chức và tuyên truyền chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam;
 - Công văn Số 720 /VLS, ngày 28 tháng 12 năm 2012 V/v Tham gia Ban Tổ chức thực hiện chương trình của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam;
 - Công văn Số 215/ CV –BCCB, ngày 02 tháng 12 năm 2011 V/v Tham gia Ban Tổ chức thực hiện chương trình của Báo Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh;
 - Biên bản Hội nghị thành lập Ban Tổ chức chương trình giao lưu “Về chiến trường xưa, Tri ân đồng đội”;
 - Ý kiến của Hội Chiến sĩ thành cổ tỉnh Quảng Trị V/v Tham gia chương trình.

IV. MỤC TIÊU
1.Về thăm lại chiến trường xưa, trong dịp lễ kỷ niệm 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị (1972 – 2012) để anh em được gặp lại đồng chí, đồng đội một thời sống chết có nhau, đền ơn đáp nghĩa đồng chí, đồng bào Quảng Trị đã cưu mang đùm bọc mình trong những tháng ngày đầy hi sinh gian khổ (nhất là các du kích dẫn đường cho bộ đội tiếp cận mục tiêu quân địch và anh chị em dân công tải thương, tải đạn, lương thực, thuốc men trong mưa bom bão đạn của quân thù).
 2. Cố gắng bằng mọi cách để tìm hài cốt các đồng đội chính tay mình chôn cất mà đến nay ít có hi vọng để được quy tập vào nghĩa trang (vì ngày đó anh em hi sinh ở đâu thì mai táng luôn ở đó, chưa có điều kiện tập trung thành nghĩa trang). Lâu nay, chúng ta vẫn canh cánh bên lòng nhưng chưa có điều kiện làm được việc này.
 3. Trong chiến đấu giải phóng tỉnh Quảng Trị, trong chốt giữ thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm và trong tiến công và phòng ngự 8 tháng (240 ngày), bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị, trên phòng tuyến từ Cửa Việt tới Ái Tử, La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Khe Trai, động Ông Do, động Tiên…). Trên một phòng tuyến dài tới 50 km, biết bao gương chiến đấu kiên cường: có những tiểu đội, trung đội, đại đội một ngày đẩy lùi hàng chục đợt tấn công của địch; có đồng chí bắn tỉa diệt hàng trăm tên địch; có đồng chí trong một trận đánh bắn tới 14 quả đạn B40 diệt 32 tên địch; có đồng chí bị thương hai, ba lần không rời trận địa. Hàng chục ngàn đồng chí ngã xuống mảnh đất này, hàng ngàn đồng chí bị thương đi viện về tuyến sau không còn dịp trở lại đơn vị, nay mang thương tật suốt đời; nhiều đồng chí bị nhiễm chất độc hóa học nay không có khả năng sinh con hoặc sinh ra những đứa con dị tật, gây đau khổ cho cả gia đình, dòng tộc.
 Tất cả cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn, quân, binh chủng đều kiên quyết giữ vững từng tấc đất đã được giải phóng, quyết không cho địch vượt sang bờ bắc sông Thạch Hãn cho tới ngày Hiệp địch Paris được ký kết có hiệu lực.
 Sau chiến tranh kẻ còn người mất, người ở lại xây dựng đơn vị, người được điều đi đơn vị khác, người phục viên, chuyển ngành, đi học… nhiều khi không có thời gian để chia tay nhau. Anh em có nguyện vọng nhân dịp gặp gỡ này, mọi người sẽ cùng phát hiện những tập thể, cá nhân có thành tích chiến đấu xuất sắc để báo cáo về đơn vị cũ để cấp trên có hình thức khen thưởng xứng đáng. Đề nghị Quân đội và Nhà nước tặng thưởng từ Huân chương Chiến công hạng ba trở lên cho tất cả các cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng và bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị năm 1972. Đề nghị UBND tỉnh Quảng Trị cấp kỷ niệm chương cho tất cả các cán bộ chiến sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong, dân công đã từng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972.
 4. Qua việc gặp gỡ lần này, anh em sẽ phát hiện các gia đình liệt sỹ, các cựu chiến binh của đơn vị mình là thương bệnh binh, các đồng chí phục viên, chuyển ngành, về hưu ở các địa phương, đến nay hoàn cảnh gia đình còn quá khó khăn, túng thiếu thì chúng ta sẽ đồng tâm hiệp lực giúp đỡ những gia đình đó bớt khó khăn phần nào, đồng thời cũng đề nghị Bộ Quốc phòng và Nhà nước giúp đỡ các đồng chí có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, ngoài khả năng của chúng ta.
 5. Từ sau chiến dịch Quảng Trị 1972, nhiều cán bộ, chiến sĩ được cử đi học để xây dựng quân đội lâu dài, nhiều đồng chí được phục viên để đi học trung cấp, đại học… thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Nhiều đồng chí được chuyển ngành sang các cơ quan Đảng và Nhà nước, nhiều đồng chí về địa phương làm nông nghiệp nhưng vẫn luôn tham gia các mặt công tác ở địa phương.
 Còn phục vụ trong quân đội có đồng chí đã lên tới cấp Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhiều đồng chí được phong cấp hàm thượng tướng, trung tướng, thiếu tướng, đại tá… phụ trách các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng…
 Các đồng chí được chuyển ngành đi học, đào tạo, nhiều đồng chí là giáo sư, tiến sĩ, bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư, chủ tịch các tỉnh, thành phố…, tổng giám đốc các tập đoàn, công ty làm kinh tế…
 Đó là những đồng chí đã phát huy thành tích trong chiến đấu, cố gắng rèn luyện trong học tập và công tác để góp phần tô thắm thêm lá cờ truyền thống “Quyết chiến, Quyết thắng” của quân đội, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước tươi đẹp của chúng ta. Qua cuộc gặp gỡ này, chúng ta có dịp để tuyên dương và ca ngợi sự cống hiến của họ và đề nghị Nhà nước khen thưởng xứng đáng.
 6. Qua cuộc gặp gỡ lần này, chúng ta sẽ tập trung những bài viết của các cán bộ, chiến sĩ của tất cả các cựu chiến binh tham gia giải phóng và giữ vững vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị (gồm truyện ký, hồi ký, truyện ngắn, thơ, nhạc, tranh, ảnh được chụp tại chiến trường Quảng Trị), động viên anh em ai nhớ được đến đâu thì viết hoặc kể tới đó. Sau đó, chúng ta tập hợp lại để in ra những tập sách truyền thống để lưu truyền cho hôm nay và mai sau.

V. PHẠM VI, QUY MÔ
1. Phạm vi:
 - Chiến dịch xuân hè Quảng Trị năm 1972;
 - Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972;
 - Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
2. Quy mô:
 Nhằm tôn vinh các cựu chiến binh đã một thời chiến đấu oanh liệt tại chiến trường Quảng Trị năm 1972:
 Các Sư đoàn 304, 308, 325, 320B (390), 312, 324, Binh đoàn Trường Sơn (559), Tổng cục II, An ninh Miền, Quân khu 4, Mặt trận B5, Bộ đội địa phương, Dân quân du kích tỉnh Quảng Trị; các quân, binh chủng: Phòng không – Không quân, Hải quân, Tăng – Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Đặc công, Thông tin, Hóa học, Tổng công trình 1 - Bộ Giao thông vận tải…

VI. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 1. Nội dung nghiên cứu
 a) Khảo sát còn bao nhiêu liệt sỹ chưa được quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ, bao nhiêu người trực tiếp mai táng đồng đội hoặc biết nơi mai táng đồng đội trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972 để đưa họ đi thực hiện tri ân với những người đã anh dũng hi sinh tại chiến trường và gia đình của họ hiện nay như thế nào?
 b) Khảo sát những cựu chiến binh hiện chưa được hưởng chính sách xã hội, điều kiện kinh tế ra sao? còn gì đề xuất với Nhà nước, đặc biệt các gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh còn đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống đời thường để kịp thời động viên giúp đỡ họ, đề nghị Nhà nước, Quân đội hỗ trợ ngoài khả năng của đồng đội.
 c) Tìm những tổ chức và đồng đôị đã có nhiều thành tích trong chiến đấu vì nhiều lý do mà chưa được khen thưởng và trong công tác thời bình mà chưa được Nhà nước, Quân đội khen thưởng xứng đáng để phát huy hình ảnh “Anh bộ đội cụ Hồ” trong giai đoạn cách mạng mới.
 d) Tri ân các anh hùng liệt sỹ, nhân dân Quảng Trị đã cưu mang đùm bọc trong chiến tranh, các thân nhân liệt sỹ, thương binh và các cựu chiến binh gương mẫu đã phát huy truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
 e) Sưu tầm những kỷ vật, tác phẩm nghệ thuật; bổ sung tư liệu còn thiếu trong chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972, chỉnh sửa những tư liệu chưa chính xác làm tư liệu lịch sử giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
 2. Phương pháp nghiên cứu
 - Điều tra, cập nhật thông tin, tuyên truyền, vận động cựu chiến binh phát hiện, tìm kiếm…
 - Thống kê, phân tích sử lý thông tin, tổng hợp dữ liệu theo thời gian, không gian chiến dịch.
 - Kết hợp hội thảo sự kiện với nhân chứng lịch sử.
 3. Giải pháp thực hiện
 a) Phỏng vấn nhân chứng lịch sử, quay phim, viết bài tuyên truyền để đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng: Đài phát thanh, truyền hình, các báo trung ương và địa phương.
 b) Do điều kiện đặc thù, thành viên Ban Chỉ đạo và Ban Tổ chức có trên 20 đồng chí ở TP Hồ Chí Minh nên Ban Tổ chức sẽ thành lập một bộ phận Đại diện của Ban Chỉ đạo và Ban Tổ chức tại TP Hồ Chí Minh để thực hiện chương trình chung.
 c) Các đồng chí trong Ban Tổ chức đại diện của Ban Liên lạc truyền thống cựu chiến binh đơn vị mình liên hệ với đơn vị đương nhiệm, các cấp ủy đảng, chính quyền, Hội Cựu chiến binh các cấp để được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần, nhằm thực hiện thành công 6 mục tiêu của Chương trình.
 d) Thường xuyên báo cáo về Ban Tổ chức Chương trình để phối hợp hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực, bảo đảm an toàn về mọi mặt.

VII. CÁC ĐƠN VỊ VÀ CÁ NHÂN THAM GIA HỖ TRỢ CHƯƠNG TRÌNH
(Ban Tổ chức sẽ có thư mời hỗ trợ)

 - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh thành.
 - Ban Tuyên giáo Trung ương.
 - Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
 - Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
 - Bộ Quốc phòng và các đơn vị tham gia chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972.
 - Bộ Công an.
 - Bộ Giao thông – Tổng công trình 1, Bộ giao thong.
 - Bộ Tài chính.
 - Bộ Thông tin – Truyền thông.
 - Bộ Ngoại giao.
 - Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch.
 - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
 - Bộ Công thương.
 - Bộ Y tế.
 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
 - Bộ Tài nguyên và Môi trường.
 - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
 - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
 - Hội Nông dân Việt Nam.
 - Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
 - Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
 - Hội Cựu chiến binh các tỉnh, thành phố.
 - Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam.
 - Hội Nan nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
 - Hội Hỗ trợ gia đình liệt sỹ.
 - Hội Phật giáo Việt Nam.
 - Hội Nhà văn Việt Nan.
 - Hội Mĩ thuật Việt Nam.
 - Hội Nhiếp ảnh Việt Nam.
 - Hội Nhạc sỹ Việt Nam.
 - Đài Truyền hình Việt Nam.
 - Đài Tiếng nói Việt Nam.
 - Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Hà Nội.
 - Liên đoàn lao động các tỉnh thành, công ty, xí nghiệp.
 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
 - Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
 - Báo Nhân dân.
 - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
 - Báo Quân đội nhân dân.
 - Báo Hà nội mới.
 - Báo Cựu chiến binh Việt Nam và báo Cựu chiến binh TP Hồ Chí Minh.
 - Báo Tuổi trẻ.
 - Báo Thanh niên.
 - Báo Công an (Bộ Công an).
 - Báo Công an TP Hồ Chí Minh.
 - Các báo, đài trung ương và địa phương khác.
 - Các tập đoàn, tổng công ty, tổ chức làm kinh tế trong và ngoài Quân đội.
 - Các ngân hàng và các cơ quan, ban ngành, đoàn thể…

PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH

I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA
 Chương trình đáp ứng nguyện vọng của các cựu chiến binh về thăm chiến trường xưa tìm đồng đội cũ để tri ân các liệt sỹ đã anh dũng hi sinh trong các chiến dịch năm 1972; đi tìm hài cốt liệt sỹ chưa được quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ, gặp lại đồng đội để ôn lại kỷ niệm một thời kỳ máu lửa tại mặt trận Quảng Trị; phát hiện những thành tích trong chiến đấu và phát huy trong đời thường đề nghị Nhà nước và Quân đội khen thưởng xứng đáng; đề nghị bảo đảm chế độ chính sách cho cựu chiến binh chưa được hưởng chính sách theo chế độ hiện hành; bổ sung những tư liệu còn thiếu, chỉnh sửa những tư liệu còn sai sót, biên tập thành tài liệu lịch sử, văn hóa để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.

II. NỘI DUNG CỤ THỂ
1. Động viên phát động cựu chiến binh trực tiếp mai táng đồng đội hi sinh tại Quảng Trị năm 1972 về chiến trường xưa tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ.
 2. Xây mới và sửa chữa nhà tình nghĩa cho các gia đình liệt sỹ, thương binh và cựu chiến binh tham gia Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 còn khó khăn về nhà ở.
 3. Trợ vốn làm ăn cho gia đình liệt sỹ, thương binh và bệnh binh đã tham gia chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972 gặp khó khăn trong cuộc sống đời thường.
 4. Cấp học bổng cho con em gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và cựu chiến binh đã chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972 gặp khó khăn trong cuộc sống đời thường.
 5. Vận động tài trợ đồ dùng học tập cho con em gia đình liệt sỹ, thương binh và bệnh binh tỉnh Quảng Trị gặp khó khăn trong cuộc sống thuộc đối tượng chính sách trong Chiến dịch Quảng Trị năm 1972.
 6. Tổ chức đi thăm hỏi, tặng quà cho một số gia đình liệt sỹ đã hi sinh anh dũng trong Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 ở một số địa phương.
 7. Đưa một số gia đình liệt sỹ vào thăm chiến trường xưa, nơi người thân đã trực tiếp tham gia chiến đấu và anh dũng hi sinh nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất (1/5/2012) và ngày thương binh liệt sỹ 27/7/ 2012.
 8. Khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho con em nhân dân tỉnh Quảng Trị trong dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất.
 9. Tổ chức cho cựu chiến binh về thăm chiến trường xưa để tri ân các liệt sỹ, cám ơn nhân dân tỉnh Quảng Trị đã đùm bọc trong Chiến dịch Quảng Trị 1972.
 10. Tổ chức giao lưu truyền hình tại Thủ đô Hà Nội với các cựu chiến binh có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và trên cương vị mới hôm nay; biểu dương các nhà tài trợ, kết hợp ca múa nhạc.
 11. Tổ chức triển lãm tranh, ảnh, điêu khắc và các tác phẩm văn học, lịch sử tại tỉnh Quảng Trị, Thủ đô Hà Nội.
 12. Sưu tầm, sáng tác, biên tập những sự kiện lịch sử, tác phẩm văn học - nghệ thuật về Chiến dịch Xuân hè 1972 và Chiến dịch Phòng ngự Quảng Trị, in thành sách và tài liệu lưu giữ để giáo dục truyền thống.

III. TỔ CHỨC VÀ KÉ HOẠCH THỰC HIỆN
A- TỔ CHỨC
1. Ban Chỉ đạo
 Thành lập Ban Chỉ đạo gồm có Trưởng Ban, 5 Phó Ban và 17 thành viên là những người đại diện cho các đơn vị tham gia chương trình, có uy tín và trách nhiệm để chỉ đạo toàn bộ chương trình theo đúng tinh thần Quyết nghị của Hội nghị toàn thể; chỉ đạo Ban Liên lạc truyền thống cựu chiến binh của đơn vị mình và góp ý xây dựng, chỉ đạo chương trình chung.
 Trưởng Ban Chỉ đạo:
 Ông Nguyễn Như Hoạt: Anh hùng, Trung tướng, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng.
 Các Phó Ban Chỉ đạo
- Ông Nguyễn Quốc Triệu: nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, Trưởng Ban Bảo vệ sức khỏe
 cán bộ Trung ương, đơn vị F325.
- Ông Phạm Xuân Thệ: Anh hùng, Trung tướng, nguyên Tư lệnh QK1, đơn vị F304.
- Ông Nguyễn Văn Phiệt: Anh hùng, Trung tướng, nguyên Phó Tư lênh chính trị Quân chủng Phòng không- Không quân.
- Ông Lê Mã Lương: Anh hùng, Thiếu tướng, đơn vị F304, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
- Ông Nguyễn Xuyên: Thiếu tướng, nguyên Chính ủy F312.
 17 Thành viên Ban Chỉ đạo
 - Ông Nguyễn Văn Tình: Anh hùng, Trung tướng, nguyên Phó Đô đốc Quân chủng
 Hải quân.
 - Ông Lê Xuân Tấu: Anh hùng, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh Tăng thiết giáp.
 - Ông Nguyễn Đức Huy: Thiếu tướng, đơn vị F325.
 - Ông Vũ Thanh Lâm: Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh Binh chủng Pháo binh.
 - Ông Nguyễn Ngọc Doanh: Thiếu tướng, Trưởng Ban Liên lạc truyền thống Cựu
 chiến binh F312 TP Hồ Chí Minh.
 - Ông Nguyễn Thế Thao: Anh hùng, Đại tá, Trưởng Ban Tổ chức.
 - Ông Nguyễn Văn Hoat: Anh hùng, Đại tá, Binh chủng Đặc công.
 - Ông Cao Văn Hậu: Anh hùng, Đại tá Binh chủng Công binh.
 - Ông Chi Phan: Đại tá, Phó Tổng biên tập báo Cựu chiến binh Việt Nam.
 - Ông Phạm Hữu Thắng: Đại tá, Viện lịch sử Quân sự.
 - Ông Trần Ngọc Long: Đại tá, đơn vị F320B (390).
 - Ông Nguyễn Dân Quyền: Nhà báo, Tổng biên tập báo Cựu chiến binh TP Hồ Chí Minh.
 - Ông Nguyễn Quang Phóng: Giám đốc Trung tâm Phim Tài liệu và Phóng sự Đài
 Truyền hình Việt Nam.
 - Ông Phùng Huy Thịnh: Chiến sĩ thành cổ, Trưởng Ban Cuối tuần, báo Hànộimới.
 - Ông Nguyễn Quang Hào: Chiến sĩ thành cổ Quảng Trị, Bí thư Đảng ủy Tổng Công ty 45-1.
 - Ông Đỗ Việt Dũng: Chiến sĩ thành cổ Quảng Trị, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần
 Thương binh đồng đội.
 - Ông Lê Xuân Niêm: Chiến sĩ thành cổ Quảng Trị, Giám đốc Trung tâm Giáo dục
 truyền thống và Lịch sử.
 2. Thường trực Ban Tổ chức Chương trình
 Trưởng ban: Anh hùng, Đại tá Nguyễn Thế Thao
 Phó ban thường trực - Tổng Đạo diễn: Nhà báo Trịnh Duy Sơn
 Phó ban thường trực - Thư ký tổng hợp: Thượng tá Nguyễn Nhật Thanh
Phó ban Vận động tài trợ: Ông Doãn Cát Phương
Phó ban: Nhà thơ- Nhạc sĩ Đỗ Sơn Hà
Phó ban: Ông Lê Quý Dương
 8 Ủy viên thường trực:  
 Ông Nguyễn Đình Chi
 Ông Nguyễn Gia Thắng
 Ông Vũ Quang Thái
 Ông Hoàng Hữu Thê
 Ông Vương Tuấn Anh
 Ông Trương Văn Sơn
 Ông Vũ Đình Toán
  Nguyễn Minh Điệp
 3. Các Tiểu ban chuyên môn
 3.1. Tiểu ban Kiểm tra
 Trưởng Tiểu ban: Đại tá Nguyễn Văn Đỉnh
 - Giám sát kế hoạch và quá trình thực hiện chương trình theo chính sách và chế độ quy định, bảo đảm công bằng, đúng người, đúng việc.
 - Giám sát thu chi tài chính và vật chất, bảo đảm đúng chế độ, chính sách, các quy định của Nhà nước và quy chế của Ban Tổ chức Chương trình. Kịp thời phát hiện những sai trái để uốn nắn, sửa chữa, khắc phục.

 3.2. Tiểu ban Tuyên truyền
 Trưởng Tiểu ban: Thượng tá Nguyễn Nhật Thanh
 - Tuyên truyền về chiến thắng vĩ đại Chiến dịch Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
 - Ca ngợi lòng quả cảm và sự hi sinh vô bờ bến của quân dân ta trong Chiến dịch Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
 - Cung cấp ấn phẩm văn hóa về Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 cho thế hệ trẻ và nhân dân.
 - Đề nghị tham gia xây dựng chương trình phát sóng trên các kênh phát thanh và truyền hình trung ương và địa phương.
 - Nói chuyện truyền thống cho học sinh, sinh viên ở các trường học, thanh niên các cơ quan, ban ngành, công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp, nông thôn…
 - Bình thơ và trưng bày các ấn phẩm văn hóa, tranh, điêu khắc, hình ảnh chiến đấu ở Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.

 3. 3. Tiểu ban Vận động tài trợ:
 Trưởng tiểu ban: Ông Doãn Cát Phương
 Phó tiểu ban thường trực: Nhà thơ, Nhạc sĩ Đỗ Sơn Hà
 Phó tiểu ban: Đại tá Vũ Quang Thái
 Ông Nguyễn Gia Thắng
 Nhà báo Vương Tuấn Anh
 36 thành viên:
 Ông Đào Chí Thành; TSKH, Giám đốc LHKH sản xuất Vật liệu KT, đơn vị F325.
 Ông Nguyễn Gia Hưng: Quân chủng Phòng không.
 Ông Nghiêm Gia: Phòng Kỹ thuật An toàn Tổng Công ty thép Việt Nam.
 Ông Nguyễn Thế Đoàn: Chi cục thuế Quế Võ, Bắc Ninh.
 Ông Nguyễn Đình Chi: Đơn vị F312.
 Ông Trịnh Duy Sơn: Nhà báo, báo Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh.
 Ông Nguyễn Nhật Thanh: Thượng tá, đơn vị D5 E165.
 Ông Vũ Giang Nam: Đơn vị F312.
 Ông Tống Xuân Đốc: Đơn vị Đoàn 559 Sơn Tây.
 Ông Nguyễn Văn Thích: Thượng tá, Trưởng ban Liên lạc E48 F320.
 Ông Nguyễn Quang Hào: Phó TGĐ Công ty 45-1, đơn vị E95F325.
 Ông Nguyễn Văn Tường: Ngân hàng Công thương Việt Nam, đơn vị E101.
 Ông Hữu Tài: Trưởng phòng VTV4, đơn vị Thông tin D46 Mặt trận B5.
 Ông Nguyễn Văn Toán: Phó Chủ tịch Công đoàn, Bộ Công Thương.
 Ông Đinh Quý Bảo: Giám đốc Nhà máy in tiền Việt Nam, đơn vị F312.
 Ông Đàm Đình Chiến: Kĩ sư, Tổng GĐ Công ty CP Trung tâm phát triển CN và NL.
 Ông Vũ Đình Toán: Thạc sĩ, Giảng viên Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
 Ông Lê Quý Dương: Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Thương mại, truyền thông Bắc Hà.
 Ông Vũ Khắc Hiến: Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ- Cựu chiến binh, đơn vị Binh Trạm 12.
 Ông Nguyễn Tiến Lãng: Chánh VP Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ.
 Ông Vũ Hồng Việt: Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ.
 Ông Nguyễn Văn Lởi: Thượng tá Cựu chiến binh E209.
 Ông Nguyễn Nam Trường: Phó Chủ tịch Hội Trường Sơn – Binh trạm 12.
 Ông Nguyễn Xuân Hưởng: Cựu chiến binh.
 Ông Trương Văn Sơn: Cựu chiến binh.
 Ông Doãn Bằng: Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội.
 Ông Phạm Ngọc: Chiến sĩ thành cổ Quảng Trị, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
 Ông Hoàng Xuân Quế: PGS- TS Đại học Kinh tế Quốc dân.
 Ông Hà Khánh Văn: Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ.
 Ông Bùi Anh Tuấn: TGĐ Công ty Thành tín Hà Nội.
 Ông Vũ Chí Công: Chuyên viên BTCTW.
 Bà Nguyễn Minh Điệp: Nhân viên kế toán, văn phòng
 Bà Nguyễn Thị Nguyệt: Tổng Giám đốc Công ty Đông Dương.
 Bà Hứa Thị Hòa Bình: Giám đốc Công ty AGG.
 Bà Hà Thị Thanh Hương: TGĐ Công ty CP Quốc tế miền Trung ASEAN.
 Bà Nguyễn Thị Nương: Trung tâm Hỗ trợ tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sỹ.
 - Xin hỗ trợ vốn ngân sách Nhà nước và các bộ, ngành…
 - Vận động tài trợ của các cơ quan, đơn vị trong quân đội.
 - Vận động tài trợ từ khối doanh nghiệp, ngân hàng, xí nghiệp, đơn vị làm kinh tế.
 - Vận động tài trợ các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, cá nhân hảo tâm.
 - Vận động tài trợ của các tổ chức quốc tế, cá nhân ngoài nước.

 3. 4. Tiểu ban Chính sách
 Trưởng Tiểu ban: Đại tá Vũ Quang Thái
 - Điều tra cơ bản các cựu chiến binh bị thương, bị nhiễn chất độc da cam, bệnh binh nhưng chưa được hưởng chế độ chính sách thỏa đáng; đề nghị Nhà nước và các ngành chức năng xem xét giải quyết.
 - Phát động phong trào cựu chiến binh về chiến trường xưa tìm mộ liệt sỹ, đưa hài cốt liệt sỹ vào nghĩa trang Quảng Trị hoặc đưa về nghĩa trang quê hương liệt sỹ theo nguyện vọng của thân nhân gia đình.
 - Tổ chức xây nhà tình nghĩa, sửa nhà xuống cấp cho gia đình liệt sỹ và các thương bệnh bình hoặc đồng đội chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972 gặp nhiều khó khăn.
 - Tổ chức thăm hỏi gia đình thương binh liệt sỹ.
 - Tổ chức khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân nghèo của tỉnh Quảng Trị.
 - Tổ chức hỗ trợ vốn và hỗ trợ thương bệnh binh gặp khó khăn.
 - Tổ chức cấp học bổng, đồ dùng học tập cho con em gia đình liệt sỹ, thương binh, cựu chiến binh tại Quảng Trị đã chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972 nay gặp khó khăn trong cuộc sống.
 - Tổ chức đưa một số gia đình liệt sỹ vào thăm tỉnh Quảng Trị - nơi thân nhân của họ đã chiến đấu và anh dũng hi sinh.

 3. 5. Tiểu ban Tổ chức sự kiện
 Trưởng Tiểu ban: Ông Lê Xuân Niêm
 - Tổ chức về thăm chiến trường xưa.
 - Tổ chức tham dự mít tinh kỷ niệm.
 - Tổ chức tham dự tri ân liệt sỹ.
 - Tổ chức giao lưu truyền hình.
 - Tổ chức biểu diễn nghệ thuật.

 3. 6. Tiểu ban Thi đua và Khen thưởng
 Trưởng Tiểu ban: Ông Cao Chức
 - Phát hiện, đề nghị phong tặng Anh hùng LLVTND, Anh hùng thời kỳ đổi mới cho cán bộ, chiến sĩ đã tham gia Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và trong cương vị mới hôm nay.
 - Đề nghị tặng thưởng Huân chương chiến công từ hạng 3 trở lên cho tất cả cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong Chiến dịch Quảng Trị năm 1972.
 - Đề nghị cấp “Kỷ niệm chương chiến sĩ Quảng Trị” cho tất cả cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972.
 - Đề nghị khen thưởng xứng đáng cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhà tài trợ và các thành viên trong Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Chương trình có nhiều đóng góp công sức và trí tuệ cho chương trình đầy ý nghĩa này.

 3. 7. Tiểu ban Triển lãm
 Trưởng Tiểu ban: Ông Trịnh Hải
 - Tổ chức triển lãm hình ảnh chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị năm 1972 và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
 - Tổ chức triển lãm tranh, ký họa, tượng, điêu khắc về chiến trường Quảng Trị năm 1972 và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
 - Tổ chức triển lãm sách văn học nghệ thuật viết về cuộc chiến đấu oanh liệt tại chiến trường Quảng Trị năm 1972 và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.

 3. 8. Tiểu ban Biên soạn, Biên tập và Xuất bản
 Trưởng Tiểu ban: Đại tá Chi Phan
 - Sưu tầm tài liệu, biên soạn bổ sung và đề nghị chỉnh sửa sai sót các tài liệu lịch sử về Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”của các sư đoàn, quân chủng, binh chủng.
 - Biên soạn bổ sung và đề nghị chỉnh sửa sai sót tài liệu lịch sử quân sự.
 - Biên soạn truyện, hồi ký, ấn phẩm văn học, sách nhạc, sách tranh, ảnh…
 - Sáng tác thơ, ca, nhạc, họa, điêu khắc, ảnh nói về Chiến dịch Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”.
 - Tổ chức xuất bản các tác phẩm văn học nghệ thuật viết về Chiến dịch Quảng Trị năm 1972, phát hành rộng rãi cho bạn đọc trên toàn quốc.

 B- KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
 Tháng 1 và tháng 2 năm 2012
 - Hoàn thiện Ban Tổ chức và các tiểu Ban chuyên môn, mượn địa điểm văn phòng làm việc của Ban Tổ chức và các iểu Ban chuyên môn.
 - Thông qua kịch bản chi tiết của chương trình.
 - Ra mắt Ban Tổ chức Chương trình.
 - Mua sắm trang thiết bị văn phòng, văn phòng phẩm.
 - Tuyên truyền vận động các cựu chiến binh của tất cả các đơn vị tham gia chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972 tham gia chương trình; tìm kiếm, vận động các đồng chí cựu chiến binh trực tiếp chôn cất liệt sỹ sẵn sàng về chiến trường xưa tìm đồng đội đã hi sinh tại mặt trận Quảng Trị 1972, chưa được đưa vào nghĩa trang liệt sỹ.
 - Khởi động vân động quyên góp phương tiện, vật chất và nguồn lực phục vụ chương trình.
 - Phát động phong trào thu thập tài liệu, bài viết, hồi ký, truyện, tiểu thuyết, thơ, ca, nhạc, tranh, ảnh, điêu khắc và những kỷ vật chiến tranh về Chiến dịch Xuân hè, Chiến dịch Phòng ngự Quảng Trị 1972, Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” và Hội nghị Paris phục vụ cho giáo dục truyền thống.

 Tháng 3 đến tháng 5 năm 2012
 - Cựu chiến binh từng sư đoàn, quân chủng, binh chủng phối hợp với thân nhân liệt sỹ, các đơn vị đương nhiệm, Ban chỉ huy Quân sự và Sở Lao động và Thương binh - Xã hội tỉnh Quảng Trị và Ban Tổ chức Chương trình tổ chức cho các cựu chiến binh trực tiếp chôn đồng đội hoặc biết phần mộ liệt sỹ chưa được qui tập vào nghĩa trang liệt sỹ, tổ chức quy tập hài cốt theo nguyện vọng của thân nhân liệt sỹ.
 - Thăm chiến trường xưa, cử cựu chiến binh tiêu biểu, thân nhân liệt sỹ dự mít tinh kỷ niệm chiến thắng Quảng Trị theo kế hoạch của tỉnh Quảng Trị, tham gia triển lãm tranh, ảnh, hội họa, điêu khắc và các tác phầm văn học nghệ thuật.
 - Tổ chức các hoạt động tri ân liệt sỹ và cám ơn nhân dân tỉnh Quảng Trị đã đùm bọc, nuôi dưỡng bộ đội trong chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972; thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ, di tích lịch sử; khám chữa bệnh, phát thuốc, đồ dùng học tập cho các con em gia đình chính sách nghèo của tỉnh Quảng Trị.
 - Tổ chức xây nhà tình nghĩa, hỗ trợ vốn, giúp đỡ cựu chiến binh vượt khó do bị thương, bị bệnh phơi nhiễm chất độc màu da cam chưa được hưởng chính sách xã hội.

 Tháng 6 đến tháng 11 năm 2012
 - Tham gia mọi hoạt động, các phong trào nhân dịp ngày Thương binh- Liệt sỹ 27 – 7 tại tỉnh Quảng Trị theo kế hoạch của các đơn vị, tiếp tục thực hiện và hoàn tất những mục tiêu đã đề ra.
 - Hoàn chỉnh các ấn phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, tranh, ảnh… in ấn, phát hành để tạo thêm kinh phí hoạt động, chuẩn bị tài liệu hội thảo làm cơ sở cho chỉnh sửa, bổ sung các tài liệu sai sót đã phát hành để hoàn thiện…
 - Tổ chức nói chuyện truyền thống về chiến thắng mặt trận Quảng Trị và chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 cho thế hệ trẻ trong các trường phổ thông, đại học, cơ quan, đơn vị quân đội, công an, công ty, nhà máy, công trường, đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội.

 Tháng 12 năm 2012
 - Tiếp tục nói truyền thống cho các đối tượng.
 - Tổ chức giao lưu truyền hình từng sự kiện về Chiến dịch Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” kết hợp biểu diễn nghệ thuật…
 - Tổ chức triển lãm tranh, ảnh, điêu khắc, sách lịch sử truyền thống, sách văn học nghệ thuật phản ánh về Chiến dịch Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
 - Tổ chức khám bệnh phát thuốc cho đồng bào nghèo ở tỉnh Quảng Trị.
 - Tổ chức về thăm một số gia đình thương binh, liệt sỹ.
 - Tổ chức gặp gỡ giao lưu tất cảc cựu chiến binh, các đơn vị tham gia Chiến dịch Quảng Trị tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội và xem triển lãm tranh ảnh, sách báo phản ánh về Chiến dịch Quảng Trị và Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
 - Tổ chức giao lưu truyền hình trực tiếp với các cựu chiến binh có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và trên cương vị mới hôm nay, kết hợp biểu diễn nghệ thuật.

 IV. MỘT SỐ QUY ĐỊNH THỰC HIỆN
A. Nguyên tắc chung:
 - Chương trình “Về chiến trường xưa, tri ân đồng đội” là tổ chức xã hội tự nguyện, không phân biệt tuổi tác, chức vụ, cấp bậc, nghề nghiệp, học vị, trình độ, tôn trọng nhau và nhất trí với Chương trình mà ban khởi xướng đã đề ra, có tâm huyết, có đủ điều kiện sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ mình đảm nhiệm theo chương trình; làm việc nguyên tắc tập thể thiểu số phục tùng đa số theo phương thức biểu quyết.
 Đại đa số những người tham gia chương trình là các CCB đã từng trực tiếp hoặc gián tiếp làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc trong từng thời điểm lịch sử nhất định; là những người ít nhiều đã được hưởng thành quả của cách mạng mà lớp lớp cha, anh, đồng đội, nhân dân đã hy sinh, cống hiến cho thế hệ hôm nay và mai sau.
 - Không chấp nhận bất cứ cá nhân, bộ phận nào nhằm lợi ích cá nhân hay bộ phận của mình làm ảnh hưởng tới ý nghĩa nhân văn của Chương trình.
 - Chương trình thể hiện đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn của dân tộc”. Việc “Tri ân đồng đội” cũng là “Tri ân xã hội” đó là trách nhiệm của mỗi thành viên chúng ta để cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện thắng lợi nghị quyết lần thứ 4 đại hội lần thứ XI của Đảng trong tình hình cách mạng mới; đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực của xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, lòng tin trong nhân dân, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
 B. Quy định:
 1. Ban Chỉ đạo là những người có uy tín, trách nhiệm được Ban Tổ chức giới thiệu là bộ tham mưu và cùng với Tiểu ban Kiểm tra theo dõi chỉ đạo “Thường trực Ban Tổ chức Chương trình” và cũng là người đứng đầu các Ban liên lạc CCB truyền thống của các đơn vị tham gia các chiến dịch năm 1972, chỉ đạo trực tiếp đơn vị của mình theo hành động thống nhất của chương trình. Các ủy viên Ban Chỉ đạo là thành viên trong Ban Tổ chức phụ trách từng mặt công tác theo khả năng của từng ủy viên.
 2. Thường trực Ban Tổ chức Chương trình là những người trực tiếp thường trực, điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, do Ban Tổ chức vận động, lựa chọn bao gồm Trưởng, Phó Ban Tổ chức; Trưởng, Phó các Tiểu ban và các bộ phận chuyên môn.
 3. Mặc dù điều kiện thực hiện có nhiều khó khăn nhưng chúng ta không chấp nhận “van lơn” hoặc lệ thuộc bất kỳ vào sự phi nhân bản để chấp nhận thực tại, mà hãy vượt lên chính mình để giá trị nhân văn của nó góp phần xứng đáng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ - nguồn lực tương lai của đất nước. Đó cũng là giá trị đích thực của cuộc sống của chúng ta hôm nay và mai sau.
 4. Từng Tiểu ban hoàn thiện tổ chức, quy chế đặc thù của mình theo nguyên tắc chung, thực hiện các mục tiêu cơ bản đã đặt ra, với tinh thần tích cực, chủ động, bảo đảm hài hòa các mối quan hệ xã hội, quan tâm đúng mức với người “lao động tri ân” không làm ảnh hưởng tới cuộc sống của cá nhân và gia đình của họ để họ có thể cống hiến nhiều hơn cho xã hội.
 5. Tham mưu và tuyên truyền theo giá trị truyền thống, đạo đức chính thống của dân tộc, thể hiện tinh thần tri ân với những người đã hy sinh, những người có công trên tinh thần tương thân, tương ái và đề nghị Đảng, Nhà nước, các cơ quan đơn vị đương nhiệm, các tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp có lòng hảo tâm tự nguyện giúp đỡ ngoài khả năng của chúng ta.
 6. Các Trưởng Tiểu ban báo cáo Ban Tổ chức thống nhất quyết định và được bổ sung vào chương trình, Hồ sơ của chương trình là văn bản pháp quy để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, các Trưởng Tiểu ban chịu trách nhiệm về kế hoạch, nội dung, con người trong Tiểu ban mình đảm nhiệm ưu tiên bảo đảm an toàn về mọi mặt.
 7. Ban khởi xướng (sáng lập), Trưởng Ban Tổ chức và Tổng đạo diễn chịu trách nhiệm chính về kế hoạch tính pháp lý, nhân sự và giá trị nhân văn của chương trình. Các Trưởng Tiểu ban chịu trách nhiệm về kế hoạch, nội dung, con người trong Tiểu ban mình đảm nhiệm.
 8. Tiền tài trợ là tiền vận động các tổ chức, cá nhân, các nhà hảo tâm để thực hiện các mục tiêu đề ra, là tiền của các đối tượng được hưởng trừ các chi phí hợp lý. Kế toán của Chương trình sử dụng đúng yêu cầu của tổ chức, cá nhân tài trợ. Hoàn thiện thủ tục, phiếu thu ngay sau khi có tiền vào tài khoản theo đúng hợp đồng tài trợ theo luật kế toán và quy định pháp luật hiện hành.
 9. Tiền vận động tài trợ chỉ được đưa vào một tài khoản của BAN TỔ CHỨC:
BTCCT kỷ niệm 40 năm CD Quảng Trị số 1500201080875 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh TP Hà Nội, địa chỉ số 77 phố Lạc Trung, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội; hoặc tài khoản của đơn vị đồng tổ chức có thỏa thuận theo từng nội dung cụ thể, do Trưởng Ban Tổ chức họp thống nhất bằng văn bản quyết định.
 - Tiền tài trợ của các địa phương, đơn vị Ban Tổ chức sẽ trực tiếp điều chỉnh phân bổ cho các CCB và đối tượng được hưởng tại các địa phương và đơn vị đó theo đúng nguyên tắc thực hiện các chính sách của Nhà nước, bảo đảm đúng đối tượng đến tận tay người hưởng lợi không qua khâu trung gian.
 - Các khoản thu khác ưu tiên hoàn vốn vay và thù lao cho người lao động trực tiếp, thù lao trách nhiệm gọi là thực hiện “Thù lao lao động tri ân” không phải trả lương tháng mà tùy theo mức độ đóng góp công sức, tiền của có xét tới hiệu quả công việc và chi phí hợp lý cho phương tiện thực hiện nhiệm vụ, chi phí hành chính, giao tiếp… do Trưởng Ban Tổ chức duyệt chi.
 - Không thu tiền của bất cứ đối tượng chính sách nào của chương trình để sử dụng vào mục đích khác.
 10. Cá nhân, tập thể chấp hành tốt quy chế được biểu dương khen thưởng bằng hiện vật hoặc đề nghị khen thưởng theo đúng luật Thi đua - Khen thưởng hiện hành. Nếu ai làm không tốt sẽ nhắc nhở, làm thiệt hại tới danh dự và tài sản của cá nhân, tập thể phải bồi thường. Trong trường hợp không giải quyết được trong nội bộ, Ban Tổ chức được quyền báo cáo các cơ quan có thẩm quyền sử lý sai phạm theo pháp luật hiện hành.

V. KINH PHÍ BẢO ĐẢM
 Để hoàn thành 6 mục tiêu của Chương trình, Ban Tổ chức vận động sự hỗ trợ của các bộ, ban ngành, đoàn thể và các tổ chức xã hội, các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài quân đội, cá nhân, các tổ chức phi chính phủ trong nước, ngoài nước tham gia hỗ trợ kinh phí, vật chất cho chương trình.
 Tiểu ban Vận động tài trợ chủ động, tích cực triển khai vận động các nguồn lực trong toàn xã hội tham gia tài trợ cho Chương trình.

VI. HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH
 1. Hiệu quả xã hội
 - Khẳng định tính nhất quán của chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo thể hiện đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, phù hợp với điều kiện kinh tế từng điều kiện lịch sử.
 - Tuyên truyền rộng rãi mọi tầng lớp trong xã hội thực hiện xã hội hóa công tác bảo đảm chế độ chính sách cho những người có công với đất nước, tạo được đồng thuận xã hội.
 - Làm bớt đi nỗi đau mất mát do hậu quả chiến tranh để lại, củng cố lòng tin trong nhân dân, xây dựng tương thân tương ái chống lại âm mưu chia rẽ khối Đại đoàn kết dân tộc của những thế lực thù địch.
 - Phát huy sức lực, trí tuệ và thời gian của các cựu chiến binh còn sức khỏe và điều kiện tri ân đồng đội góp phần đóng góp và cống hiến cho xã hội phát huy bản chất “Anh bộ đội cụ Hồ”.
 - Hành động của chương trình là “Mệnh lệnh không lời” để giáo dục thiết thực cho thế hệ trẻ Việt Nam nêu gương lớp lớp cha ông đã vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
 - Lưu trữ và rút ra bài học thực tiễn vô giá mà bao nhiêu xương máu đồng đội mới có được làm tư liệu giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.

 2. Hiệu quả kinh Tế
 - Đóng góp nguồn lực không nhỏ cho đất nước, giải quyết những tồn đọng của chiến tranh, động viên được sức mạnh tổng hợp của lực lượng toàn xã hội cùng tham gia giải quyết, nhiều khi có tiền chưa hẳn đã làm được.
 - Tiết kiệm ngân sách công quỹ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới; tận dụng sức lực, trí tuệ và thời gian nhàn dỗi của lực lượng lớn cựu chiến binh trong các đơn vị tham gia chiến dịch Quảng trị, tạo ra tài sản vô giá cho xã hội.
 - Để lại những kỷ vật, tư liệu vô giá, bổ sung vào kho tàng văn hóa, lịch sử Việt Nam.

VII. TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG TOÀN BỘ CHƯƠNG TRÌNH
 - Tổng kết rút kinh nghiệm về mọi hoạt động của chương trình, quyết toán chi tiêu tài chính, vật chất, rút kinh nghiệm những việc làm tốt và những việc chưa hoàn thành; đề ra phương hướng giải quyết những việc còn tồn đọng; biểu dương những người có nhiều công lao đóng góp cho chương trình về tiền bạc, vật chất, công sức và trí tuệ.
 - Cử một bộ phận chuyên trách để giải quyết những việc còn tồn đọng như: Tìm mộ liệt sỹ, tham gia đề xuất với Nhà nước giải quyết chế độ thương bệnh binh, chất độc da cam, khen thưởng…
 - Tuyên bố giải thể Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức và các tiểu ban chuyên môn.

PHẦN THỨ 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

I. KẾT LUẬN
 Chương trình “VỀ CHIẾN TRƯỜNG XƯA, TRI ÂN ĐỒNG ĐỘI” huy động lực lượng lớn sức người, sức của toàn xã hội để thực hiện chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với những người có công với đất nước.
 Là chương trình tuyên truyền có giá trị nhân văn sâu sắc thể hiện tính nhất quán về chính sách của Đảng và Nhà nước; một đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp phát huy truyền thống “Anh Bộ đội cụ Hồ” của lớp lớp Cựu chiến binh Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước.
 Một hoạt động đồng tâm hiệp lực của nhiều đơn vị, nhiều người tâm huyết mang lại hiệu quả thiết thực; thể hiện tấm lòng của những người may mắn còn sống, tri ân đồng đội đã hi sinh anh dũng và chia sẻ những khó khăn với gia đình họ đã cống hiến phần máu thịt cho sự nghiệp giải phóng dân tộc dành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

II. KIẾN NGHỊ
 1. Đảng và Nhà nước, Quân đội chỉ đạo tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp xã hội, vinh danh các gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và những người có công với đất nước.

 2. Đề xuất xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tiêu cực đã được kết luận trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước của các đối tượng được hưởng chính sách xã hội.

 3. Hỗ trợ và vận động các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân hỗ trợ cho chương trình kinh phí, vật chất để thực hiện được càng nhiều càng tốt việc giải quyết tồn đọng về chính sách cho các đối tượng tham gia các chiến dịch 1972. Coi trọng nhân chứng lịch sử để thực hiện chính sách xã hội.

 4. Khen thưởng xứng đáng những người có thành tích chiến đấu và công tác chưa có điều kiện khen thưởng do nhiều lý do khác nhau.

 5. Đáp ứng nguyện vọng của các cựu chiến binh về thăm chiến trường xưa. Đây là cuộc gặp gỡ hiếm có trong đời của các cựu chiến binh đã tham gia các chiến dịch năm 1972. Sự chiến đấu hi sinh vô bờ bến của các cựu chiến binh là bài học vô giá cho thế hệ trẻ, hun đúc lòng yêu nước, thương dân, thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

 Rất mong được sự đóng góp ý kiến về đề án Chương trình “Về chiến trường xưa, tri ân đồng đội” của Nhà nước, Quân đội, các cấp lãnh đạo, các đơn vị, các ban liên lạc thường trực cựu chiến binh các quân, binh chủng, quân đoàn, sư đoàn tham gia chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972 để Chương trình hoàn thiện hơn.

 Xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội ngày 15 tháng 3 năm 2012

 TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC

 Anh hùng, Đại tá Nguyễn Thế Thao


 Địa chỉ liên lạc:
 Anh hùng, Đại tá Nguyễn Thế Thao - Trưởng Ban Tổ chức.
 Trụ sở: 194 Hoàng Văn Thái, P. Khương Mai, Q. Thanh Xuân, Hà Nội.
 Tài khoản: BTCCT Kỷ niệm 40 năm CD Quảng Trị số: 1500201080875
 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Hà Nội

Điện thoại:
 - Nguyễn Thế Thao Trưởng Ban Tổ chức: 0983381944
 - Trịnh Duy Sơn Phó ban thường trực- Tổng đạo diễn: 0903100046
 - Nguyễn Nhật Thanh Phó ban- Thư ký tổng hợp: 0983288135








1 nhận xét:

XEM SLIDE ẢNH, NGHE NHẠC

                                                                                                           Xem tất cả Tại đây       

NGHE NHẠC THƯ GIÃN

ĐỘC TẤU ĐÀN BẦU 100 BÀI
100 CA KHÚC CÁCH MẠNG

Tìm kiếm nhanh

 
@ 2011All Rights Reserved.Template by Xml Blogger Templates
Thực hiện: Nguyễn Hữu Uyến *** Tp. Hà Nội, Việt Nam *** Liên hệ*** Email: nguyenhuuuyen@gmail.com